Tính minh triết của đạo Phật (Phần 1)

Thích Thông Huệ

Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người. Đạo Phật có tính ưu việt đồng thời mang tính minh triết và tồn tại gần 26 thế kỉ.

Đức Phật đã truyền thông điệp giác ngộ và giải thoát xuyên suốt lịch sử trong quá trình hình thành và bây giờ truyền bá khắp thế giới. Vào thời đại văn minh, người ta sống không phải dễ tin bất cứ một điều gì nên chúng ta cần khơi gợi lại những điểm sáng của đạo Phật để có niềm tin không phai mờ. Cũng chính điều đó mà đạo Phật khác hẳn các tôn giáo áp đặt niềm tin.

Tính minh triết của đạo Phật vô cùng trong sáng, không áp đặt con người phải tin, mà chỉ gợi mở để con người phát huy nội lực của mình bằng sự hiểu biết thông qua kinh nghiệm tu tập để nhận ra đó là lý tự nhiên, lý siêu nhiên mà Đức Phật đã gợi mở từ xưa đến nay. Đạo Phật đặt nặng tri kiến như thật về các pháp, còn các tôn giáo thần quyền đặt nặng về đức tin, nghĩa là phải tin như thế, không được phản bác hoặc suy nghĩ khác.

Đối với Đạo Phật mọi người có quyền nghi ngờ cả lời chỉ dạy lẫn giáo lý của Đức Phật, có quyền phản vấn hoặc đặt câu hỏi với bất cứ một vị chân sư nào truyền đạt thông điệp giác ngộ và giải thoát của Ngài. Đạo Phật nói tri và kiến, tức là thấy biết như thật về các pháp, nên luôn có cách nhìn khách quan về các pháp, thấy bằng công phu thiền tập, bằng sự chứng nghiệm tự thân thì mới thấy giá trị đích thực lời Phật dạy. Mãi đến bây giờ, những lời dạy của Ngài vẫn còn nguyên giá trị, là đuốc soi đường cho nhân loại ở thế giới đương đại, thế giới nguy hiểm về tính si mê, chạy theo vật dục.

Nhà Phật có đề cập đến tri kiến Phật và tri kiến phàm phu. Tri kiến phàm phu là cái thấy biết sai lầm, chẳng hạn trong nhà Phật nói thấy dây thừng mà tưởng thành con rắn, thuyền đi mà ngỡ bờ chạy, mây bay mà tưởng đó là trăng dời. Cái nhìn của phàm phu là nghe, thấy, biết nhưng bằng tham sân si, phiền não, vô minh nghiệp chướng nên còn sai lạc không đúng về sự thật vốn có của các pháp, nên khi gột rửa những cấu nhiễm trong tâm sẽ dần dần thấy biết chính xác hơn. Cái thấy chấp ngã, điên đảo, vọng tưởng, tham sân si chỉ là cái thấy phàm phu. Đức Phật vốn thấy biết nhưng không còn vọng tưởng vô minh điên đảo như chúng ta, cả một đời Đức Phật xuất hiện để khai thị cho chúng sanh thấy được tri kiến đó tiềm ẩn trong lớp bụi phiền não, trong thân ngũ uẩn, hễ khai phát ra và ứng dụng là tri kiến Phật. Chúng ta sống với tri kiến phàm phu nên khổ mà chính chúng ta là tác nhân, tác giả của nỗi khổ trên cuộc đời phiền trược này chứ không phải thượng đế hoặc bề trên bắt chúng ta khổ đau hoặc hạnh phúc. Thay vì giải thích nguyên ủy của vũ trụ nhân sinh là chơn tâm phật tánh thì các tôn giáo nói rằng có một đấng bề trên chi phối vận mạng của chúng ta.

Đến với đạo Phật, thiên đường hay địa ngục, hạnh phúc hay khổ đau, chánh báo hay y báo, phong trần hay phong lưu đều do chúng ta gây ra bởi chính chúng ta là trung tâm của vũ trụ chứ không phải thượng đế hay đấng bề trên bày vẽ ra, đó là tính nhân bản mà cũng là tính dân chủ, bình đẳng của đạo Phật, và chỉ có đạo Phật mới thuyết minh được sự khác nhau giữa con người và con người, là do tính tương tục của nhân quả trong đó ghép thêm yếu tố thuận và nghịch của duyên. Khi luận nhân duyên và quả về lý tự nhiên của trời đất, các pháp đang vận hành thì Đức Phật soi rọi nhân sinh để nói nhân quả báo ứng hay nhân quả nghiệp báo, đó là giải thích sự sai thù về những vận mạng khác nhau của con người mà chính họ đã tạo nhân, đủ duyên, có kết quả, có chánh báo và y báo không ai giống ai. Đạo Phật giải thích rất công bằng và công tâm. Nhân quả là công lý, là hình thức xử phạt của công lý tự nhiên mà nhân quả là diễn tiến vô thường trong thế giới tự nhiên, nhân mà gặp duyên nghịch thì quả chẳng tốt đẹp. Rõ ràng như cán cân công lý trong đó không phải do Thượng đế thiếu công bằng, nên chúng ta có thể lý luận người nào nghiệp nặng thì gặp ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, còn thuận duyên nghiệp nhẹ thì gặp ba đường lành, Trời, Người, A Tula. Nhân, duyên và quả có sẵn trong thế giới tự nhiên, tính minh triết về thế giới nhị nguyên tương đối có thiện ác, đúng sai, tốt xấu, hạnh phúc khổ đau. Sau đây là bài kệ Nhân quả ba đời:

“Dục tri tiền thế nhân.

Kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả.

Kim sanh tác giả thị. ”

Nghĩa là: Muốn biết nhân đời trước thì xem mọi thọ dụng đời này, coi hiện tại mình đang thọ hưởng gì, nghèo hay giàu, sướng hay khổ thì có thể biết được kiếp trước mình đã tạo gì. Muốn biết được tương lai thì không nên xem bói toán hoặc gặp thầy tướng mà chỉ cần nghiệm lại ba nghiệp thân-khẩu-ý mình đã tạo tác những gì ở đời này. Nếu trong từng thời khắc hiện tại chúng ta nói, nghĩ và làm những điều thiện lành và có sự tu tập thì tương lai sẽ tốt đẹp. Bài kệ nhân quả này không có yếu tố của thần linh, không mang ý nghĩa ban phước giáng họa của bề trên, không có đấng quyền năng nào chi phối vận mệnh con người mà tất cả đều diễn tiến theo lý nhân quả tự nhiên. Tính minh triết của đạo Phật về nghiệp báo luân hồi, nhân quả báo ứng trở thành triết thuyết, chinh phục lương tri lương tâm con người, giải thích sự bất bình đẳng giữa nhân sinh, trong đó phủ nhận yếu tố thần linh chi phối vận mạng con người, đó là vấn đề cơ bản nhất của đạo Phật. Nếu chúng ta không thông hội mà cứ gởi gắm niềm tin hết chỗ này đến chỗ khác thì niềm tin của chúng ta không phải bằng tri kiến như thật mà bằng đức tin Thần Thánh và con người hay ỷ lại vào bề trên.

Đạo Phật là một tôn giáo được xây dựng nền móng bằng trí tuệ Bát nhã mà Bát nhã là trung tâm phát huy nội lực của đạo Phật, xây dựng nên trí tuệ vút cao. Chính nền móng căn bản này mà tất cả những sứ giả Như Lai đem đạo Phật vào đời, tự tạo dựng nên nền minh triết mà thế giới hiện tại khâm phục và quý trọng. Đạo Phật khác hẳn những tôn giáo niềm tin bởi vì đạo Phật có đức tin nhưng không áp đặt niềm tin. Xưa kia vua chúa quan lại có ấn dấu để chứng thực uy quyền của vua quan, nếu không có ấn dấu thì tầng lớp này không làm việc được vì họ nhận trọng trách để điều hành có hiệu lực đối với ba quân tướng sĩ. Đệ tử Như Lai nếu không có pháp ấn thì sẽ làm sai lệch giáo lý của Ngài mà giáo lý là bản chất và cốt lõi của đạo Phật, và càng không thể thừa hành trọng trách “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” được. Nếu như ấn dấu là chứng thực uy quyền của vua thì đấng Pháp Vương Vô Thượng dùng ấn dấu để các đệ tử của Ngài trong công tác giáo hóa độ sinh phát huy năng lực truyền bá chánh pháp, lợi lạc quần sanh.

Ấn dấu của Đấng Pháp Vương bao gồm: Tứ pháp ấn, Tam pháp ấn và Nhất pháp ấn, là những ấn dấu hình thành nên sứ mệnh của đạo Phật trong cuộc đời. Tứ pháp ấn là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu đệ tử Phật không thông hiểu thì chưa thấy được giá trị của đạo Phật. Vô thường là sự chuyển dịch di dời trong lòng sự vật. Đạo Nho đã viết ra quyển Kinh Dịch nói về sự chuyển dịch của trời đất. Vô thường là đại hóa, biến hóa ở bất cứ mọi lúc, mọi nơi, vận động di dời là sự sống, đứng yên là chết, nên vô thường là sự sống. 

Chúng ta cần hiểu sâu vô thường để hiểu đạo lý một cách tích cực, đó là ý nghĩa của Bồ Tát đạo. Nếu hiểu vô thường đem đến khổ đau cho nhân thế rồi chán nản thì chúng ta cố gắng thúc thủ, diệt dục, tiến tu, dừng lại, đứng yên lặng lẽ trong Niết bàn. Đó là Niết bàn tịch tịnh lặng lẽ của Nhị thừa. Nếu hiểu vô thường là sự sống để tích cực hành Bồ Tát đạo, phát huy điểm sáng của vũ trụ thì đó là điểm nhấn của Phật giáo đại thừa. Nhà Phật nói: Vô thường thị thường, quá khứ đã vô thường, hiện tại đang vô thường, tương lai sẽ vô thường. Vô thường là một thực tại không thay đổi, là lý thường của trời đất, chúng ta không nên bi quan khi nghe nhắc đến vô thường mà cần thấy rằng vô thường là một thực tại rất nhiệm mầu, đẹp đẽ và chúng ta hãy ở nơi vô thường mà khuếch đại tự do.

Bài viết khác

Xem thêm
Zalo
Hotline