Thiền Tông

 

Nguồn: Sưu tầm

Trước thời và trong thời Đức Phật, Thiền định và rất phát triển ở Ấn Độ cổ, đã có tu sĩ  nhiều vị đạt trình độ cao và một số thần thông. Vì thế có thể nói thiền định là phương cách tư duy của mọi người, thuộc một tôn giáo hay không tôn giáo nào chứ không riêng của Phật giáo nhưng Thiền định Phật giáo được liên kết chặt chẽ với tôn giáo và triết học. Trong Phật giáo, nó được gọi là Bhavana, có nghĩa là phát triển, và jhana hoặc dhyana có nghĩa là rèn luyện tinh thần dẫn đến một tâm trí bình tĩnh và trong sáng.

Tu tập thiền định của đạo Phật là một phần hướng tới sự giải thoát, giác ngộ và niết bàn. Thiền định Phật giáo liên quan đến các kỹ thuật như shamata (chánh niệm), tập trung vào việc phát triển sự bình tĩnh, rõ ràng và ổn định bên trong một người hoặc lòng nhân ái, và thiền quán chiếu tập trung vào cách cư xử chiêm nghiệm.

 

Những nét đặc trưng của Thiền tông có thể tóm tắt bằng 4 câu kệ sau:

 

教 外 別 傳

不立文 字

直 指 人 心

見 性 成 佛

 

Giáo ngoại biệt truyền

Bất lập văn tự

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật

 

Ở ngoài kinh điển đặc biệt truyền

Chẳng kiến lập văn tự

Chỉ thẳng tâm người

Thấy chân tính thành Phật.

 

Tam vô lậu học của Phật giáo bao gồm Giới luật, Thiền định và Trí tuệ. Như vậy, tu học Phật pháp, là tu sĩ hay tín đồ Phật giáo, đều phải thực hành Thiền định. Khoảng một ngàn năm sau thời Đức Phật, truyền thuyết kể rằng Tổ Bồ-đề-đạt-ma, vị Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa, đưa Thiền tông vào Trung Quốc, truyền cho Nhị tổ Huệ Khả. Dòng Thiền được nối tiếp qua Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Huệ Năng. Từ Lục tổ Huệ Năng,...

 Từ lâu, Phật giáo cũng đã trở thành một bộ phận hữu cơ của văn hóa Việt Nam. Mỗi tông phái Phật giáo, trong quá trình tồn tại đều có những đóng góp quan trọng để tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam, song có lẽ, nổi trội nhất là Thiền tông. Thiền tông Việt Nam cũng mang nội dung và hình thức tương tự như vậy và vì được truyền từ Thiền tông Trung Hoa, tất nhiên là chịu ảnh hưởng rất lớn của thiền tông Trung Hoa và cũng tất nhiên có một số khác biệt.Ngoài những đóng góp  về tư tưởng, Thiền tông  và sau này là Thiền tông Việt Nam còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội Việt như: văn học, nghệ thuật, kiến trúc, lối sống… của con người Việt Nam.

Về cơ bản, tư tưởng của Thiền tông Việt Nam cũng mang tư tưởng của Thiền tông nói chung,  khi cho rằng Phật tại tâm ( Phật tính có trong mỗi con người),  Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác (Phật pháp ở tại thế gian và không tách rời thế gian) và kiến tính thành Phật ( không cần tìm cầu ở bên ngoài, mà dùng trí tuệ để nhìn thấy chân tính của tâm mình thì có thể giác ngộ); nói cách khác, có thể tìm sự giác ngộ qua những hành động, việc làm trong cuộc sống hàng ngày, tức là nếu con người hướng thiện bằng cách phục vụ nhân sinh, vì cuộc sống con người, người đó sẽ tiến dần đến giải thoát.Tuy nhiên, dường như những tư tưởng ấy của Thiền tông được thể hiện một cách cụ thể, rõ ràng hơn, tạo nên nét đặc trưng của Thiền tông Việt Nam, đó là tính dân tộctinh thần nhập thế xuyên suốt tư tưởng và hành động của Thiền tông Việt Nam trong lịch sử phát triển và tồn tại. Nhập thế vốn là thuật ngữ được hình thành từ Nho giáo, với việc đòi hỏi con người phải có ý chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần tự cường không nghỉ, có ý thức về sứ mệnh lịch sử của bản thân và trách nhiệm đối với xã hội, nhưng nhập thế theo quan điểm của thiền phái Trúc Lâm là nhập vào đời sống xã hội và tích cực hơn là đóng góp, cống hiến sức mình cho nhân dân, cho dân tộc, cho sự phát triển của xã hội. Cũng là nhập thế nhưng sự nhập thế của các thiền sư Trúc Lâm mang mục đích xã hội, hướng về xã hội mà phụng sự, lo lắng và có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước, sự an nguy của dân tộc, của nhân dân; còn hành động nhập thế của các thiền sư Trung Hoa thì cơ bản chỉ trong phạm vi sinh hoạt cá  nhân hoặc nội bộ thiền viện. Đây cũng là nét đặc sắc trong tinh thần nhập thế của Thiền tông Việt Nam.

I. Các Thiền phái tại Việt Nam

Các sách lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi nhận cụ thể các vị Đại thiền sư từ Trung Hoa sang Việt Nam, đến ngôi chùa Việt, thành lập một tông phái Thiền và được xem là Tổ. Có tông phái này được kế thừa bởi nhiều thế hệ nhưng về sau có sự ảnh hưởng qua lại giữa tông phái này và tông phái khác, nhiều vị Sư thuộc tông phái này lại đến tu tập, cộng cư với các vị thuộc tông phái khác. Càng về sau, ý niệm về tông phái không còn đậm đà. Hiện nay, ý nghĩa tông phái tại các tự viện không còn sâu đậm, không mang nét đặc thù của từng tông phái.

1/ Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci, Nam Ấn) sang Trung Hoa năm 562, đệ tử của Tam Tổ Trung Hoa là Tăng Xán. Đại sư sang Việt Nam năm 580 đến chùa Pháp Vân, gặp Sư Pháp Hiền đang dạy chúng và truyền pháp cho Pháp Hiền. Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi kể từ Pháp Hiền thì được 18 thế hệ.

Đại sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi mang Thiền của Tổ Tăng Xán, vị Tổ nổi danh với bài "Tín tâm minh", biểu lộ tính tự tại, vô chấp, vô cầu. Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi cũng được xem là có nội dung tu tập gồm Thiền tông và Mật tông. Có lẽ các học giả về sau căn cứ vào sự việc Tỳ-ni-đa-lưu-chi dịch kinh Tượng đầu (tư tưởng Thiền), kinh Siêu việt hữu vô và kinh Tổng trì (tư tưởng Mật).

Các vị Đại sư kế tục Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, ngoài tư tưởng Thiền, còn là những vị nghiêng về Mật tông, với Sấm ký, pháp thuật như Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Pháp Thuận…

2/ Thiền phái Vô Ngôn Thông:

Đại sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, Trung Quốc từng ngộ pháp từ câu nói của Đại sư Bách Trượng (thuộc thế hệ thứ 3 từ sau Lục tổ Huệ Năng). Năm 820, Đại sư từ Quảng Châu sang Việt Nam, đến chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng ở Bắc Ninh, truyền pháp cho ngài Cảm Thành. Thiền phái Vô Ngôn Thông bắt nguồn từ đó, truyền được 16 thế hệ sau khi Vô Ngôn Thông tịch, tức gồm tất cả 17 thế hệ.

Thiền phái này chú trọng sự đốn ngộ, Phật chính là tâm, bất nhị, vô đắc. Có lẽ phương pháp thoại đầu thiền là rõ nét nhất trong việc giáo hóa, truyền pháp của Thiền phái Vô Ngôn Thông: các Thiền sư phái này như Thiện Hội (thế hệ 3), Định Hương (thế hệ 7), Ngộ Ấn (thế hệ 9). Ngoài ra, cần kể một nét đẹp, đặc sắc của Thiền phái này là các Thiền sư thường là những nhà thơ thiền, dùng thơ để giải đáp cho người vấn đạo, mở đầu cung cách nêu thoại đầu bằng thi ca, tạo thành nét đẹp, đặc sắc trong Văn học Thiền Việt Nam: Thiền Lão (thế hệ 7), Viên Chiếu (thế hệ 8), Trí Bảo (thế hệ 11), Tịnh Không (thế hệ 11).

3/ Thiền phái Thảo Đường

Đại sư Thảo Đường là người Trung Hoa, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu (tịch năm 1052). Tuyết Đậu, Đệ tử của Đại sư Vân Môn Văn Yển (864 – 949) là một Thiền sư, một bậc trí giả Phật học, Tác giả của nhiều tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất là bộ Tuyết Đậu ngữ lục. Ngài Thảo Đường thuộc thế hệ thứ 8 của dòng Thanh Nguyên Hành Tư, tức là thuộc thế hệ thứ 9 của Lục tổ Huệ Năng. Trong lúc hành hóa ở Chăm-pa, Đại sư Thảo Đường bị vua Lý Thánh Tông trong lúc đem quân chinh phạt Chăm-pa bắt làm tù binh (năm 1069) và đem về Đại Việt. Tại đây người ta phát hiện ngài là vị Đại sư, tài trí, đức độ cao vời, được vua phong làm Quốc sư. Từ đó, ngài Trụ trì chùa Khai Quốc tại kinh thành Thăng Long, lập ra Thiền phái Thảo Đường của Việt Nam, gồm 6 thế hệ, trong đó các Đại sư Bát Nhã (thế hệ 2), Không Lộ, Định Giác (thế hệ 3) là các Đại sư nổi tiếng.

Thiền phái Thảo Đường không có ảnh hưởng lâu dài nhưng so với thời trước đó, đây là Thiền phái trí thức, gồm vua quan và một số cư sĩ trí thức. Điều đáng lưu ý là Thiền phái này có sự dung hợp với Thiền phái Vô Ngôn Thông và một phần có sự ảnh hưởng của Mật tông, ví dụ trường hợp của Bát Nhã và Đại Điên - vốn đã có từ Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Thiền phái Vô Ngôn Thông.

4/ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Tổ khai sơn của Thiền phái Yên Tử là Đại sư Hiện Quang (mất năm 1220), tu ở Chùa Lục Tổ do Đại sư Thiền Chiếu (Thiền phái Vô Ngôn Thông) trụ trì, về sau tham học với các ngài Trí Không, Pháp Giới rồi khai sơn núi Yên Tử, thường được là Trúc Lâm Đại Sa-môn được phong làm Quốc sư. Từ đó, truyền thống Trúc Lâm Yên Tử được hình thành.

Đại sư Hiện Quang tịch, nối tiếp truyền thống Trúc Lâm là Đạo Viên (thầy của vua Trần Thái Tông). Đại Đăng (thầy của vua Trần Thánh Tông), Tiêu Diêu (thầy của Tuệ Trung), Huệ Tuệ, Trúc Lâm (tức Trần Nhân Tông), Huyền Quang, Pháp Loa... cho đến Vô Phiền; tổng cộng là 23 vị, 5 thế hệ đầu của truyền thống Trúc Lâm Yên Tử , nổi bật về cung cách tu tập Thiền tông chỉ gồm vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng hai vị này là cư sĩ và không cụ thể truyền pháp cho ai. Sự truyền thừa chỉ gần như là nối nghiệp trụ trì. Đến Trúc Lâm Đầu-đà Điều Ngự Trần Nhân Tông, vị vua anh minh, anh hùng, vị Thái thượng hoàng cao quý, bỏ ngai vàng để thành Sa-môn, Đại Thiền sư, lập Thiền am trên núi Yên Tử, trở thành vị Tổ của 17 Đại sư thuộc 17 thế hệ sau của truyền thống Trúc Lâm.

Đất nước và Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh mẽ, rực rỡ nhất vào thời nhà Trần, tức vào thời Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được thành lập. Nội dung thực hành chủ yếu nhằm vào tư tưởng của Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Sơ tổ Trúc Lâm, Nhị tổ Pháp Loa và Tam tổ Huyền Quang: Phật tại tâm, Chân tâm, Bất nhị, Sự thong dong tự tại, Ý nghĩa truyền tâm, truyền y bát. Đặc biệt, Thiền phái này có lối ứng cơ tiếp vật qua các thoại đầu, chen lẫn thơ ứng khẩu nhưng nội dung thực hành thì không khác với Thiền tông Trung Hoa, lại có sự pha trộn ít nhiều với Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông.

Do việc mở mang đất nước, chống ngoại xâm của Trúc Lâm Sơ tổ Trần Nhân Tông mà nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng Thiền học đời Trần, cụ thể là Trúc Lâm Yên Tử, mang màu sắc dân tộc, lòng yêu nước, ý chí độc lập tự cường… Thiết nghĩ, quan niệm như thế quả là không phù hợp với Thiền.

Đáng tiếc là thời kỳ hưng thịnh này của Thiền phái Trúc Lâm không kéo dài được bao lâu, 15 thế hệ sau Tam tổ Huyền Quang không thấy có hoạt động gì ngoài việc chỉ được nêu pháp danh, pháp tự của mỗi một người thuộc một thế hệ!

Một số học giả cho rằng Thiền sư Chơn Nguyên (mất 1722) đã phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vì ngài là người được truyền thừa y bát Trúc Lâm, ngoài việc ngài và các đệ tử trú tại Trúc Lâm và các ngôi chùa của phái này và trùng san một số sách đời Lý Trần; điều này không vững vàng và cũng không thấy chủ trương tu tập của ngài giống với Trúc Lâm. Gần đây, Hòa thượng Thích Thanh Từ từ 1971 đến 2011 đã xây dựng khoảng 40 Thiền viện, được cho rằng ngài khôi phục Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Công lao và trí tuệ, đạo đức của ngài là rất lớn, nhưng qua sinh hoạt của các Thiền viện (đặc biệt là các Thiền viện Trúc Lâm mới được tạo lập) vẫn không mang sắc thái của truyền thống Trúc Lâm.

 

Bằng việc sáng lập thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử, Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đưa Thiền tông ở Việt Nam trở thành Thiền tông Việt Nam. Đặc trưng, đồng thời là nét đặc sắc nhất của Thiền Trúc Lâm là tính dân tộc và tinh thần nhập thế. Chính bởi đặc trưng ấy nên trải qua thời gian dài, có những lúc tưởng chừng như không còn tồn tại độc lập, nhưng những năm gần đây, Thiền tông Việt Nam đã – đang phát triển trở lại. Lý do cơ bản chính là những giá trị và vai trò của nó trong cuộc sống đương đại ngày nay: góp phần tạo nên một xã hội ổn định, phát triển kinh tế, gìn giữ chuẩn mực đạo đức, lối sống tốt đẹp, định hướng hành vi cá nhân và hành vi xã hội.

5. Thiền phái Lâm Tế:

Một số sách về lịch sử Thiền Việt Nam ghi rằng từ thời chúa Nguyễn Hoàng (1559-1513), khoảng mười vị sư từ Trung Quốc sang Việt Nam, đến các tỉnh Quảng Trị, Thuận Hóa (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên…lập chùa, phần lớn là thuộc dòng Thiền Lâm Tế. Thuận Hóa là kinh đô nên nhiều thiền sư đến hoằng hóa. Đáng kể nhất là Đại sư Minh Hoằng Tử Dung (nguyên quán Quảng Đông, đời thứ 34 dòng Lâm Tế) khai sơn cùa Ấn Tôn, truyền Thiền Lâm Tế cho Đại sư Liễu Quán vào năm 1708. Ngài Liễu Quán (mất năm 1793) trở thành Tổ của dòng Lâm Tế Việt Nam và thuộc thế hệ 35 dòng Lâm Tế, người xây dựng, trú trì các chùa Thiền Tông, Viên Thông ở Thuận Hóa, Hội Tông, Cổ Lâm, Bảo Tịnh tại Phú Yên. Thiền phái này vẫn theo truyền thống truyền tâm, truyền công án, thoại đầu.

Đến nay, Thiền phái này vẫn tồn tại nhiều nhất tại Thừa Thiên Huế. Đại sư Nhất Hạnh, xuất thân từ chùa Từ Hiếu, thuộc thế hệ thứ 8 dòng Liễu Quán và thứ 42 dòng Lâm Tế, người đã phát triển Thiền Việt Nam ở hải ngoại, trở thành vị Thiền sư nổi tiếng khắp thế giới.

Khoảng thời gian này có Đại sư Nguyên Thiều (phái Lâm Tế) và Đại sư Thạnh Liêm (phái Tào Động) đến Đại Việt, nhưng hai vị này dựng chùa, giảng Phật pháp chứ chưa thấy tài liệu nào ghi nhận hai ngài đã lập Thiền phái Lâm Tế hay Tào Động tại Việt Nam...

6/ Thiền phái Tào Động

Thiền phái Tào Động khởi từ phép tu của Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bổn Tịch (thế kỷ IX) ở Trung Hoa, quan điểm của phái này được tượng trưng bằng nghiêng và thẳng. Thẳng là tuyệt đối, chân không pháp thân, nghiêng là tương đối hiện tượng diệu hữu. Thẳng và nghiêng vốn là một.

Tổ Thiền phái Tào Động Việt Nam là Đại sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704), quê ở Thái Bình, sang Trung Quốc tu học. Đến năm 1667, sau ba năm ở Trung Quốc, ngài về nước, trú tại chùa Vọng Lão, huyện Đông Triều, Hải Dương. Đại sư thành lập Thiền phái Tào Động tại Đàng Ngoài, phát triển mạnh mẽ hơn 100 năm. Về sau, tuy Thiền phái này không còn mạnh như trước, có dấu hiệu lụi tàn dần nhưng không bị mai một. Đến ngày nay khá nhiều chùa và chư Tăng Ni thuộc Thiền phái Tào Động ở nhiều tỉnh thành ở miền Bắc.

Các Thiền phái Việt Nam đều xuất phát từ các Thiền phái Trung Hoa, dĩ nhiên mang đậm tính chất Thiền Trung Hoa và dĩ nhiên cũng có đặc điểm riêng của Thiền Việt Nam.

II. Vai trò của Thiền tông Việt Nam đối với cuộc sống đương đại

Thiền tông Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị trí, tầm quan trọng của mình trong đời sống xã hội, đời sống tinh thần của người dân bởi các được vai trò, giá trị vốn có của mình:

+ Góp phần tạo nên một xã hội ổn định

Chúng ta đều biết, sự dân chủ, bình đẳng và tinh thần từ bi hỉ xả sẽ tạo ra một xã hội ổn định, mà tư tưởng của Thiền tông Việt Nam lại thể hiện khá rõ ràng  những đặc tính này. Như đã đề cập, tư tưởng của Thiền tông Việt Nam là Phật tại tâm, kiến tính thành Phật, tính dân tộc và tinh thần nhập thế. Theo tinh thần đó, ai cũng có thể thành Phật và chính điều đó tạo ra sự bình đẳng cho mọi người, để họ có tinh thẩn hợp tác, tham gia tích cực vào xã hội, hướng tới sự nhân ái hòa bình – biểu hiện của tinh thần bác ái, cải cách xã hội bằng cách cải cách từng thành viên và đi vào gốc rễ thâm sâu nhất, đó là tâm của mỗi người.

Tinh thần dân chủ, bình đẳng được thể hiện khá rõ ràng trong các sinh hoạt thiền tại các thiền viện. Trong những năm gần đây, khá nhiều các tự viện tổ chức và tổ chức thường xuyên các khóa tu thiền. Số lượng người tham gia cũng ngày một đông và hứng thú hơn. Tại đây, không có sự phân biệt giàu nghèo, địa vị, nghề nghiệp, lứa tuổi, tôn giáo của các thiền sinh. Điều này thể hiện sự bình đẳng trong chủ trương tổ chức và chiêu mộ thiền sinh đến sinh hoạt thiền. Ngoài ra, những biểu hiện như trang phục giống nhau giữa các thiền sinh, bữa ăn không dùng đũa mà chỉ dùng thìa để xẻ thức ăn (thìa cá nhân và thìa chung để chia phần thức ăn từ đĩa/bát đựng thức ăn ra bát cá nhân) thể hiện sự tôn trọng với người ăn sau. Điều này cho thấy sự bình đẳng với mọi thiền sinh khi tham gia khóa tu thiền. Nhìn rộng hơn, sự bình đẳng giữa các cá nhân trong cộng đồng là yếu tố cần thiết cho một xã hội ổn định. Sự dân chủ thể hiện ở việc một số vấn đề của xã hội được đưa ra bàn luận, các thiền sinh có thể trao đổi, đóng góp ý kiến của mình, còn lối sống lục hòa giúp thiền sinh được tôn trọng  và đối xử bình đẳng như nhau trên tinh thần hòa hợp, yêu thương, điều đó sẽ giúp các thiền sinh tôn trọng mọi người, tương thân tương ái..

Bên cạnh đó, một hiệu quả khác mà các khóa tu thiền đem lại, đó là góp phần hạn chế các vấn nạn xã hội. Hiện nay xuất hiện không ít hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân. Vấn nạn tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng đã làm không ít người chạy theo lối sống vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần. Các tệ nạn xã hội khác đang có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức, biểu hiện khác nhau như mại dâm, ma túy, cờ bạc, rượu chè và đặc biệt là HIV/AIDS… Điều này tạo ra tâm lý hoang mang, lo sợ, thậm chí mất niềm tin vào thế giới hiện thực của một bộ phận nhân dân. Họ tìm nhiều điểm tựa tinh thần, trong đó có Phật giáo để vượt qua những khó khăn, bất hạnh. Nhiều người đã chọn những khóa tu tại các chùa để tìm cho mình và tạo lập lối sống lành mạnh, tự tạo ra “kháng sinh” cho bản thân mình. Trong các khóa tu, sau giờ học, các bạn trẻ được học hát, tham gia trò chơi cộng đồng, chăm sóc và bảo vệ mội trường thiên nhiên xung quanh, được giao lưu, đốt lửa trại, đọc sách, sám hối… Đây là lúc mỗi thành viên nhìn lại những việc mình đã làm, thành thật với bản thân những điều chưa tốt để sửa chữa và cố gắng hơn. Ở góc độ nhất định, các khóa tu là hình thức giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng theo tinh thần thương yêu (bi), hiểu biết (trí) và can đảm (dũng). 

Bài viết khác

Xem thêm
Zalo
Hotline