Phật Giáo Nguyên Thủy

 

  1. Tổng quan về Phật Giáo Nguyên Thủy

Phật Giáo Nguyên Thủy (còn được biết là Phật Giáo Theravāda hay Phật Giáo Nam Tông) là trường phái Phật giáo có cội rễ từ thời của Đức Phật, được chỉ dạy bởi Đức Phật Gotama cách đây hơn 2600 năm (530 TCN - 370 TCN); tính từ thời gian đức Phật thành Đạo và được truyền thừa 3, 4 thế hệ cho đến sau khi Ngài nhập diệt, đây cũng là khoảng thời gian nội bộ Phật Giáo vẫn chưa phân hóa, tư tưởng còn thống nhất. 

Đây là truyền thống Phật Giáo mà các Bậc Đại Trưởng Lão & các Trưởng Lão cố gắng gìn giữ, duy trì chánh Pháp nguyên thủy, thuần khiết, đầy đủ, không rời rạc. Các giáo Pháp của Phật Giáo Nguyên Thủy được đưa vào việc học, giảng dạy và tu tập thực hành Pháp thông qua bộ Kinh Điển Tam Tạng Tipiṭaka Pāli & Chú Giải Pāli được các Đại Trưởng Lão, các Trưởng Lão kết tập lại những lời Đức Phật dạy và lưu truyền cho tới ngày nay gồm Tạng Luật, Tạng Kinh & Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), cùng bộ Chú Giải; ngoài ra còn có bộ Phụ Chú Giải và các tài liệu tham khảo thêm.

  1. Nền tảng của Phật Giáo Nguyên Thủy

Nền tảng của giáo lý Nguyên thủy là thực tu thực chứng, thiết thực hiện tại. 

Đức Phật từng nói rằng: “Giáo pháp của Ta là thiết thực hiện tại, đến để mà thấy, không có thời gian, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”. 

Mục đích Đức Phật thuyết pháp không phải vì tranh luận với đời, mà là con đường đi đến diệt khổ, điều này đi ngược lại hoàn toàn các giáo chủ các nền tôn giáo đương thời, chỉ lo biện luận, mà không chú trọng thực hành diệt khổ đau. Những gì mang tính lý luận, không đưa đến kết quả, Đức Phật hoàn toàn không để tâm đến. 

Mặt khác giáo lý Đức Phật luôn đứng trên lập trường thực tế, tùy bệnh mà cho thuốc, chứ không như các nhà luận sư đương thời chỉ biện luận những gì trong phạm trù mình biết. Giống như câu hỏi của vua Ajatasattu khi hỏi Lục sư ngoại đạo về hạnh Sa môn, lại được trả lời về những phạm trù như Thuyết Luân hồi tịnh hóa, đoạn diệt, lõa thế,... Đức Phật thì đứng trên lập trường thực tế, tùy ý muốn, tùy căn cơ mà thuyết pháp, cũng giống như câu hỏi của vua Ajtasattu hỏi về hạnh Sa môn thì Đức Phật thuyết về hạnh Sa môn,…

Đức Phật dạy mọi người phải cảnh giác với những sai lầm của các nhà triết gia, nguỵ biện đương thời, chỉ mãi mê lý luận mà xa rời thực tế. Nhiệm vụ chủ yếu của Phật pháp là mở ra con đường giải thoát, giáo pháp này luôn đầy đủ hai phương diện quan trọng: triết học và tôn giáo, lý luận và thực tế.

  1. Trung tâm của Phật Giáo Nguyên Thủy

Phật giáo Nguyên thủy lấy Pháp làm trung tâm. Pháp là Dharma, gốc của thuật ngữ Dharma là Dhr, có nghĩa là nắm giữ. Lập trường của Phật giáo Nguyên thuỷ là loại bỏ cái chủ thể “thần” (trong Bà-la-môn giáo thừa nhận Thần là chủ thể của pháp và luật) và nhấn mạnh pháp là do tâm của con người. Phật giáo quy nạp pháp nhân giới, một mặt cho pháp tự thân là chủ thể và người thể nghiệm, đồng thời cũng cho con người là chủ thể của pháp, là người thể nghiệm pháp. Có thể chia pháp làm hai loại:

  • Pháp tính hiện lượng: Tất cả pháp trên thế gian đều do nhân duyên mà hợp thành. “Thấy được duyên khởi là thấy được pháp – Thấy pháp là thấy duyên khởi”, do duyên mà sinh thì đó gọi là Duyên khởi. Đức Phật có ra đời hay không ra đời thì pháp cũng không thay đổi. Bởi, nó là pháp giới thường trụ, là thực pháp, là định pháp, là tính duyên khởi,…
  • Pháp giới lý tưởng: là phần nội tại của hiện giới “Trước hết phải có trí tuệ về pháp trụ (nhân duyên), sau lại phải có trí tuệ về Niết bàn (ý tưởng)”. Nói cách khác, sự hiểu biết về pháp tắc của hiện tượng giới (vô minh duyên hành…lão tử…) sẽ đưa đến nhận thức về pháp tắc của lý tưởng giới (vô minh diệt…khổ diệt). Phương pháp để đạt đến pháp giới lý tưởng là Bát chánh đạo, Tứ niệm xứ – đạo Nhất thừa của chư Phật quá khứ

Phật giáo Nguyên thủy lấy nội tâm làm chủ. Chủ trương chúng ta chỉ cần làm chủ tâm thì chúng ta có thể chi phối được vũ trụ khách quan. Bởi vì, thế giới thực tại bên ngoài tương ứng với tâm của ta. Nguyên thuỷ Phật giáo tuy có một quy tắc thực hành không nhất định, nhưng lại lấy tinh thần làm chủ chứ không lấy hình thức ngoại tại làm chủ, không quá chú trọng đến những quy định bên ngoài.

Phật giáo Nguyên thuỷ vẫn xem trọng đạo tại gia, mặc dù ở tại gia nhưng nếu giữ được chánh hạnh cũng đều là chánh pháp, cũng là sự chuẩn bị hướng tới giải thoát. Người tại gia, tuy sống cuộc đời dục vọng nhưng nếu luôn luôn thanh tịnh hoá nó thì rồi dần dần cũng tiến gần đến lý tưởng. Vậy giá trị tu đạo của tại gia cũng rất đáng được tưởng lệ.

Mục đích của Phật giáo Nguyên thuỷ là sự giải thoát. Mục đích của đời sống trong Phật giáo nguyên thuỷ là Tứ quả A-la-hán (đoạn trừ 10 kiết sử : thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử, vô minh): “Đức Phật là vị đã khám phá ra con đường chưa được khám phá từ trước, một vị đã biết và thuyết con đường ấy. Các hàng Thanh văn chỉ là những người nương theo con đường ấy mà thôi”.

  1. Giáo lý trọng tâm của Phật Giáo Nguyên Thủy

Giáo lý trọng tâm của Phật giáo Nguyên thủy là Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã và Niết bàn. 

  • Tứ diệu đế là lời dạy căn bản về bốn sự thật (khổ, tập, diệt, đạo). Giáo lý này được xem như là một công thức được áp dụng cho tất cả mọi vật được nhận thức. Công thức này được hiểu như sau: thực chất của các pháp (Dukkha-khổ), nguyên nhân phát sinh các pháp (samudaya), sự diệt trừ chúng (nirodha), phương pháp diệt trừ chúng (magga). Tứ đế có thể so sánh với y khoa: bệnh, nguyên nhân của bệnh, sự diệt trừ cặc bệnh, và phương pháp chữa bệnh. Các nhà Phật học Abhidhammna về sau phân tích Tứ đế thành hai nhóm: Nhân và quả thế gian và xuất thế gian. Khổ và tập thuộc về thế gian (luân hồi khổ đau là quả, nguyên nhân của nó là nhân); Diệt và đạo thuộc về Niết-bàn (Niết-bàn là quả, đạo đế là nhân).
  • Duyên khởi giải thích về sự hiện hữu của con người và thế giới. Nhân duyên nêu rõ các pháp hữu vi đều do nhân duyên quyết định và do vậy chúng không có thực ngã hay thực thể. Duyên khởi có thể xem như là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ hệ thống giáo lý Phật giáo, giải thích lộ trình nhân quả của các pháp hiện tượng. Nguyên tắc của duyên khởi được tóm tắt trong một công thức:
    • Cái này có thì cái kia có (imasmim sati idamhoti).
    • Cái này sinh thì cái kia sinh (imassuppada idam uppajjati)
    • Cái này không thì cái kia không (imasmim asati idam na hoti)
    • Cái này diệt thì cái kia diệt (masmim nirodha idam airujjhata)
  • Vô ngã được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ. Vô ngã (anatta) nghĩa đen là “không có ta”, nghĩa bóng có nhiều nghĩa, theo Đại thừa vô ngã có nghĩa là “vô tự tính”; theo Nguyên thủy vô ngã có nghĩa là “không phải là ta, không phải là của ta”. Tôi không thể xem bất cứ cái gì là của riêng tôi hay thuộc về tôi, bởi vì những thứ mà tôi xem như thế đều có nguồn gốc từ khổ đau. Đức Phật dạy rằng: “Tất cả Pháp Hữu Vi” đều Vô Thường. “Tất cả Pháp Hữu Vi” đều Khổ. “Tất cả Các Pháp” đều Vô Ngã.
  • Niết bàn (Nibbana hoặc Nivarna) là sự dứt bỏ, sự tách rời (ni) ra khỏi ái dục (vana), sự thèm khát ái dục. Niết bàn là tham-sân-si diệt, khát ái diệt, vô minh diệt. Niết bàn cũng có nghĩa là dập tắc “nirva”, ý nghĩa tích cực của Niết bàn là bất tử (amala), tuyệt đối an ổn (yogakikhama), mát rượi (sitibhava). Niết bàn theo Phật giáo Nguyên thuỷ có hai loại:  
    • Hữu dư y Niết bàn (Sopadisesa Nibbana): người đạt được cảnh giới giải thoát khỏi luân hồi, trừ diệt hết thảy phiền não, cắt đứt 10 kiết sử, đoạn trừ hoàn toàn tham sân si nhưng nhục thể vẫn còn tồn tại, phái Vedanta gọi là Hữu thân giải thoát (jivanmukti)
    • Vô dư y Niết bàn (Anupadisesa Nibbana): là cảnh giới giải thoát hoàn toàn không còn nhục thể, phái Vedanta gọi là Vô thân giải thoát (ajivanmukti).

Lời kết: 

Cho đến tận ngày nay, Phật Giáo Nguyên Thủy vẫn giữ gìn đúng theo những gì Đức Phật Gotama đã ban hành và chế định không sai lệch, tôn trọng và giữ y nguyên lời dạy (Dhamma) của Ngài. Phật Giáo Nguyên Thủy cùng với những giáo lý căn bản của Đạo Phật như Tứ diệu đế, duyên khởi, vô ngã, niết bàn giúp không biết bao nhiêu đệ tử của Phật đã chứng quả giải thoát, trở thành những thánh tăng, tăng bảo, xứng đáng là ruộng phước cho trời người cúng dường.

Nguồn: Sưu tầm.

 

 

Bài viết khác

Xem thêm
Zalo
Hotline